Sự chuẩn bị của An Lộc Sơn Loạn_An_Sử

Lấy lòng vua Đường

Thủ lĩnh cầm đầu cuộc nổi dậy chống nhà Đường là An Lộc Sơn. An Lộc Sơn là người Liễu Thành, tên thật là An Rokhan, người dân tộc Sogdian (Túc Đặc). Lộc Sơn nguyên mang họ Khang, nhưng sau đó bà mẹ cải giá với An Diên Yểm nên lấy họ An. Lộc Sơn là phiên âm tiếng Hán của chữ Roxsan, theo tiếng bản tộc có nghĩa là "ánh sáng".

Lộc Sơn đầu quân làm tướng nhà Đường, nhờ chiến đấu dũng cảm và tỏ ra trung thành nên nhanh chóng được thăng tiến. Từ năm 740 đến năm 751, An Lộc Sơn được thăng từ đô đốc Doanh châu lên Tiết độ sứ ba trấn Phạm Dương, Hà Đông và Bình Lư, nắm toàn bộ vùng đông bắc Trung Quốc khi đó.

Tuy có trí thông minh nhưng Lộc Sơn luôn tỏ ra vụng về ngốc nghếch khiến Đường Huyền Tông rất tin tưởng và nhận ông làm con nuôi. Vợ Huyền Tông là Dương Quý Phi trở thành mẹ nuôi của Lộc Sơn, dù kém ông 16 tuổi. Tuy nhiên chính từ lúc ra vào triều kiến vua Đường, Lộc Sơn và Dương Quý Phi bắt đầu có quan hệ lén lút[7] nhưng Huyền Tông không hề nghi ngờ mà càng thêm tín nhiệm Lộc Sơn[8]. An Lộc Sơn to béo bụng phệ, theo sử sách ghi lại thì người nặng tới 330 cân[9]. Huyền Tông thấy vậy hỏi, Lộc Sơn lại mau miệng đáp rằng bụng to vì mang lòng trung với vua Đường. Huyền Tông nghe thế lại càng tin Lộc Sơn.

Xây dựng lực lượng

Ngay khi Lộc Sơn chưa có thế mạnh thì Tể tướng Trương Cửu Linh, thái tử Lý Hanh… đã không vừa lòng với Lộc Sơn và cảnh báo Huyền Tông rằng Lộc Sơn sẽ làm phản. Huyền Tông không tin, trái lại còn thỏa mãn các yêu cầu của Lộc Sơn như cho bổ sung quân nhu và binh mã[8]. Dựa vào các quan lại có qua lại trong triều, An Lộc Sơn biết được thái độ của thái tử Hanh với mình, nên càng gấp rút chuẩn bị lực lượng để lo cho tương lai sau khi Đường Huyền Tông qua đời[10].

Để sau này có đường lui, dựa vào sự tín nhiệm hiện tại của Đường Huyền Tông, An Lộc Sơn bắt đầu xây dựng thực lực riêng cho mình. Ông thu dụng những văn sĩ bất mãn người Hán như Nghiêm Trang, Cao Thượng, Trương Thông Nho, Lý Đình Kiên làm mưu sĩ.

Với khả năng biết tới 6 thứ tiếng các tộc thiểu số, ông ra sức chiêu dụ các quân nhân người tộc này. Sau các trận đánh có quân đầu hàng hoặc bị bắt, đích thân ông dùng ngôn ngữ của họ để giao tiếp gây thiện cảm, an ủi họ, lôi kéo trở thành trợ thủ đắc lực. Ông tuyển chọn ra 8000 quân thiện chiến làm lực lượng nòng cốt, nhiều người bộ tộc Đồng La, Hề, Khiết Đan rất dũng mãnh, thiện chiến mà ông nuôi dưỡng, huấn luyện thành lực lượng riêng gọi là Duệ lạc hà (Tiếng bản tộc có nghĩa là tráng sĩ).

Năm 754, An Lộc Sơn tiến thêm một bước để thu phục lòng trung thành của họ, đề bạt 500 người Hề, Khiết Đan, Cửu Tính, Đồng La lên làm tướng quân và 2000 người thăng chức Trung lang tướng. Đầu năm 755 ông lại dùng 32 tướng người Hồ thay các tướng người Hán, từ đó toàn bộ tướng lãnh dưới quyền An Lộc Sơn đều là người Hồ. Ngoài ra, An Lộc Sơn còn ra sức tích lương thảo, nuôi nhiều chiến mã, làm số quân và thực lực mạnh hơn hẳn lực lượng của triều đình trung ương nhà Đường.

Các hành động của An Lộc Sơn khiến nhiều người trong chính quyền trung ương nghi ngờ. Tới giai đoạn sau, khi binh lực của Lộc Sơn đã mạnh, các quyền thần như Lý Lâm Phủ, Dương Quốc Trung đều có những tính toán riêng, nên họ đều có ý định lợi dụng An Lộc Sơn và đề phòng lẫn nhau. An Lộc Sơn đã khôn khéo triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa các đại thần trong chính quyền trung ương để tranh thủ thời gian chuẩn bị thế lực cho mình.

Cho tới năm 755, An Lộc Sơn đã cất nhắc và trọng dụng các tướng văn, võ vào bộ máy dưới quyền mình gồm:

  • Bên văn có Cao Thượng, Nghiêm Trang, Trương Thông Nho, Lý Đình Kiên, Bình Liệt, Lý Sử Ngư, Độc Cô Vấn Tục
  • Bên võ có Sử Tư Minh, An Thủ Trung, Lý Quy Nhân, Thái Hy Đức, Ngưu Đình Giới, Hướng Thuận Dung, Lý Đình Vọng, Thôi Càn Hựu, Doãn Tử Kỳ, Hà Thiên Nhiên, Vũ Lệnh Tuần, Hùng Nguyên Hạo, Điền Thừa Tự, Điền Càn Chân, A Sử Na Thừa Khánh